Pliosaur: giải mã nỗi kinh hoàng biển cả hàng triệu năm trước

pliosaur-dang-boi-trong-nuoc
Các pliosaur từng là những kẻ thống trị đại dương tiền sử (tác giả: Sergey Krasovskiy)

Pliosaur là tên gọi chỉ chung cho các chi bò sát biển thuộc họ Pliosauridae. Các pliosaur thuộc bộ Plesiosauria, được chia làm hai phân bộ: Plesiosauroidea với cổ dài, đầu nhỏ và có bộ răng nhọn lởm chởm phù hợp với đời sống săn bắt cá. Ngược lại, các thành viên của phân bộ Pliosauridae là những bò sát biển cổ ngắn, đầu to, với hai vây chèo phía trước to khỏe.

Các pliosaur được xem là các hung thần thống trị các đại dương cổ đại. Các bò sát biển này là những kẻ săn mồi vô cùng tàn bạo và chế độ ăn của chúng đơn giản là bao gồm mọi sinh vật xuất hiện trong tầm mắt: từ cá, mực và thậm chí là các loài bò sát biển khác, trong đó có cả các họ hàng plesiosaur. Plesiosaur là những tay bơi lặn rất giỏi, tuy nhiên, cũng giống rất nhiều loại bò sát biển khác, chúng không thể hô hấp ngay trong nước mà phải trồi lên mặt nước để hít thở không khí.

Thời đại của các pliosaur kéo dài từ cuối Kỷ Trias cho đến khi các thành viên cuối cùng biến mất vào giai đoạn Turon thuộc Kỷ Creta (khoảng 89,8 – 93,9 triệu năm trước), khi quyền thống trị đại dương của chúng bị thay thế bởi những kẻ săn mồi tân tiến và đáng sợ hơn rất nhiều lần: các mosasaur.

Rhomaleosaurus

Rhomaleosaurus săn mồi (tác giả: Gabriel Ugueto)

Rhomaeleosaurus là chi bò sát biển khác biệt nhất trong danh sách này khi đây là đại diện cho họ Rhomaleosauridae, bao gồm các pliosaur sống ở giai đoạn đầu đến giữa Kỷ Jura. Hóa thạch của Rhomaleosaurus và các họ hàng của chúng tập trung nhiều nhất tại Anh quốc. Mẫu vật Rhomaleosaurus đầu tiên, R. cramptoni được phát hiện vào giữa thế kỷ XIX tại một mỏ nhôm tại Yorkshire, Anh quốc và có niên đại từ giai đoạn Toarc thuộc Kỷ Jura (180 – 183 triệu năm trước).

Từ đó đến nay, đã có thêm ba loài Rhomaleosaurus khác được xác định bao gồm R. propinquus, R. thorntoniR. zetlandicus. Các cá thể Rhomaleosaurus trưởng thành có thể dài đến 7 m, dựa theo mẫu vật định danh NMING F8785. Tương tự như các pliosaur thuộc họ Rhomaleosauridae, Rhomaleosaurus có cổ ngắn và phần đầu to hơn các plesiosaur nhưng chưa đến mức sở hữu hộp sọ khổng lồ như các pliosaur thế hệ sau như Pliosaurus hay Kronosaurus.

rhomaleosaurus
Rhomaleosaurus (tác giả: anthon500/Deviant Art)

Một trong những đặc điểm đáng chú ý của Rhomaleosaurus và có lẽ cũng tồn tại ở các họ hàng của chúng là khướu giác đặc biệt nhạy trong nước. Loài bò sát biển này có thể cảm nhận mùi, ví dụ mùi máu khi dòng nước chảy qua các thụ thể khứu giác trong hộp sọ của chúng, một cơ chế “đánh hơi” rất giống với cá mập hiện đại. Con mồi ưa thích của Rhomaleosaurus là các loài cúc đá hoặc bò sát biển khác như ichthyosaur hay plesiosaur.

Luskhan

Luskhan itilensis là một trong những loài pliosaur mới được phát hiện trong những năm gần đây. Bộ xương gần hoàn chỉnh của loài bò sát biển này được phát hiện bởi Gleb N. Uspensky vào năm 2002 tại khu vực phía Đông sông Volga, thuộc thành phố Ulyanovks, miền Tây nước Nga. Bộ hóa thạch này được lưu trữ tại Bảo tàng I.A. Goncharov Ulyanovsk Regional Museum of Local Lore cho đến khi được Valentin Fischer và các cộng sự (bao gồm chính Uspensky) mô tả và đặt tên là Luskhan itilensis.

Cái tên này là sự kết hợp của luuses – một tinh linh của nước trong thần thoại của người Mông Cổ và Đột Quyết với khan (hay “hãn”) là từ để chỉ vị thủ lĩnh của các dân tộc du mục này. Trong khi đó, tên loài itilensis bắt nguồn từ cách người Đột Quyết gọi sông Volga.

L. itilensis sống vào đầu Kỷ Creta, cách đây 130 – 135 triệu năm. Một cá thể Luskhan trưởng thành có thể dài đến 6,5 m và có cái mõm dài khá đặc trưng, trong đó riêng phần hàm dưới đã dài khoảng 1,6 m. Thoạt nhìn Luskhan khá giống các plesiosaur thuộc họ Polycotylidae, tuy nhiên trên thực tế chúng có quan hệ họ hàng khá xa và sự giống nhau này đơn thuần chỉ là đặc điểm tiến hóa hội tụ để phù hợp với lối sống săn bắt cá của những bò sát biển này.

Makhaira

So với các pliosaur sống vào nửa cuối Kỷ Creta, Makhaira có kích thước tương đối khiêm tốn với chiều dài chỉ 5 m. Hóa thạch duy nhất của loài bò sát biển này được phát hiện ở khu vực ven bờ sông Volga thuộc nước Nga, dù không nguyên vẹn nhưng vẫn đủ tính đặc thù để tách các pliosaur này thành một chi riêng biệt. Trong đó, đáng chú ý nhất là cấu trúc răng với tiết diện ba mặt có các răng cưa vòm cao đáy hẹp với nhiều kích cỡ khác nhau tạo nên những gợn sóng phân bố dọc theo các cạnh răng.

Đặc điểm răng của Makhaira rossica (nguồn: Fischer V. et al)

Dựa trên đặc điểm này và nơi phát hiện ra chúng, loài pliosaur này cuối cùng được đặt tên là Makhaira (tên một loại gươm của Hy Lạp) rossica (nghĩa là thuộc về nước Nga).

Makhaira rossica (tác giả: Hyrotrioskjan/Deviant Art)

Gallardosaurus

Hóa thạch của Gallardosaurus được phát hiện ở phía Tây Cuba, trong khu vực biển Caribbea bởi một người nông dân – ông Juan Gallardo. Ban đầu, đây được xem là hóa thạch của một loài pliosaur khá phổ biến là Peloneustes cho đến khi được xác định lại là một chi hoàn toàn mới vào năm 2009, với chỉ một loài duy nhất là G. iturraldei.

Các Gallardosaurus sống vào giai đoạn Oxford thuộc Kỷ Jura, cách thời đại của chúng ta 157,3 – 163,5 triệu năm trước. Địa bàn hoạt động của chúng có lẽ không chỉ bó hẹp ở khu vực Biển Caribbe mà vùng biển này chỉ là nơi chúng di cư ngang hàng năm. Vùng biển ấm và nông với mực nước chỉ vào khoảng 10 – 12 m, là nơi các Gallardosaurus chia sẻ khu vực hoạt động với nhiều loài bò sát biển khác của Kỷ Jura như các loài ngư long hay rùa cổ đại.

Megacephalosaurus

Megacephalosaurus là loài bò sát biển từng tồn tại ở vùng Biển Nội hải phía Tây vào giai đoạn Turon thuộc nửa cuối Kỷ Creta (cách đây 93 – 94 triệu năm). Đây là một trong những loài pliosaur lớn nhất từng được biết đến với chiều dài có thể lên đến 9 m.

Megacephalosaurus sở hữu một hộp sọ khổng lồ, có thể dài từ 1,7 m – 1,75 m, lớn nhất trong số các pliosaur từng được phát hiện ở Bắc Mỹ, đó là lý do loài bò sát biển này được đặt tên như vậy (Megacephalosaurus có nghĩa là “thằn lằn đầu lớn”).

Các hóa thạch đầu tiên của Megacephalosaurus được phát hiện bởi hai anh em tại một khu đất gần Fairport, bang Kansas. Trong hơn 60 năm, các mẫu vật này được cho là thuộc về loài pliosaur Brachauchenius lucasi, cho đến khi một nghiên cứu năm 2013 đã quyết định phân lập chúng thành một loài mới hoàn toàn là Megacephalosaurus eulerti.

Megacephalosaurus là thành viên của phân họ Brachaucheninae, bao gồm những chi pliosaur còn tồn tại đến nửa cuối Kỷ Creta – giai đoạn hoàng hôn của các pliosaur. Trong đó, Megacephalosaurus cùng với BrachaucheniusPolyptychodon là ba chi pliosaur cuối cùng còn hiện diện đến giai đoạn Turon, cho đến khi các bò sát biển này hoàn toàn biến mất. Sự tuyệt chủng của các pliosaur cũng chấm dứt thời đại thống trị đại dương của chúng và thay thế bởi các bò sát biển ưu việt hơn như mosasaur.

Brachauchenius

Brachauchenius là một trong những pliosaur cuối cùng còn sinh sống ở khu vực ngày nay là Bắc Mỹ. Các hóa thạch của chúng được phát hiện tại bang Kansas và cuối Thế kỷ XIX, nơi còn lại các dấu tích của vùng biển Nội địa phía Tây và có niên đại 89,3 – 100,5 triệu năm trước.

Kronosaurus

Các hóa thạch của Kronosaurus được phát hiện đầu tiên tại bang Queensland (Australia), nơi xưa kia là một vùng biển nội địa lạnh giá nằm giữa lục địa châu Úc có tên gọi Biển Eromanga. Loài bò sát biển khổng lồ này (có thể đạt chiều dài từ 10 – 12,8 m) được đặt theo tên vị chúa tể titan Kronos trong Thần thoại Hy Lạp và sinh sống vào nửa đầu Kỷ Creta (thuộc gian đoạn Apt đến Alba, cách đây từ 100 – 120 triệu năm).

Hình ảnh phục dựng của Kronosaurus (tác giả: Gabriel Ugueto)

Cho đến nay, chỉ có một loài Kronosaurus được ghi nhận là K. queenslandicus. Trước đây, chi Kronosaurus còn có một thành viên thứ hai được phát hiện ở Colombia là K. boyacensis nhưng sau đó loài này đã được tách thành một chi riêng biệt là Monquirasaurus vào năm 2021. Kronosaurus là loài ăn thịt đầu bảng trong lãnh địa của chúng. Các hóa thạch cho thấy pliosaur khổng lồ này có chế độ ăn rất đa dạng từ rùa cổ đại cho đến các loài bò sát biển khác.

Kronosaurus (tác giả: arvalis/Deviant Art)

Một trong những đặc điểm dễ nhận biết nhất của các Kronosaurus là cấu trúc răng. Gã khổng lồ này sở hữu một hàm răng khủng khiếp với chiều dài tối thiểu là 7 cm, thậm chí có thể lên đến 30 cm nếu tính luôn phần chân răng. Khác với răng của LiopleurodonPliosaurus, răng của Kronosaurus có hình nón thay vì cấu trúc 3 mặt và có các bờ cắt sắc nhọn.

Sachicasaurus

Năm 2013, trong một chuyến khảo sát thực địa được tổ chức phối hợp bởi Đại học Quốc gia Colombia (Universidad Nacional de Colombia) và Công ty Dầu khí Quốc gia Colombia (ECOPETROL), các nhà khoa học đã có một phát hiện gây chấn động giới khảo cổ lúc bấy giờ. Đó là một bộ hóa thạch có mức độ hoàn thiện nhất từ trước đến nay trong khu vực, bao gồm một hộp sọ và một chi sau hoàn chỉnh, cùng một số đốt sống của một pliosaur chưa từng được biết đến trước đây, có nguồn gốc từ Tầng Barremie (khoảng 121,4 – 129,4 triệu năm trước) được tìm thấy tại Sáchica, một ngôi làng nhỏ gần Villa de Leiva.

Bộ hóa thạch được phát hiện tại làng Sáchica của Sachicasaurus vitae (Nguồn: Páramo-Fonseca et al)

Phát hiện này đã gây chấn động giới khảo cổ lúc bấy giờ và mang lại sức sống cho ngôi làng Sáchica, giống như cái tên của loài pliosaur mới này (Sachicasaurus vitae, vitae nghĩa là “sự sống”). Mẫu vật được tìm thấy thuộc về một cá thể chưa trưởng thành nhưng đã ước tính dài đến 10 m, qua đó có thể thấy đây là một trong những chi pliosaur lớn nhất từng được biết đến.

Sự xuất hiện của Sachicasaurus bổ sung vào sự đa dạng trong bộ sưu tập các sinh vật biển đã được phát hiện tại Hệ tầng Paja nổi tiếng của Colombia, trong đó đáng chú ý có 3 chi pliosaur đã được xác định bao gồm Acostasaurus, Stenorhynchosaurus, Monquirasaurus.

Liopleurodon

Cái tên Liopleurodon trở nên quen thuộc với khán giả đại chúng qua series nổi tiếng Walking with the Dinosaurs phát hành vào năm 1999. Tuy nhiên, cá thể Liopleurodon trong phim đã bị phóng đại kích thước lên nhiều lần. Trên thực tế, một cá thể Liopleurodon khi trưởng thành có thể đạt chiều dài từ 5 – 7 m. Dù chưa phải là loài pliosaur lớn nhất từng được ghi nhận nhưng Liopleurodon vẫn là một trong những kẻ săn mồi nguy hiểm nhất vùng nước nơi chúng từng sinh sống cách đây 155 – 165 triệu năm.

Liopleurodon đang săn đuổi các plesiosaur Cryptoclidus (tác giả: PrehistoricArt/Deviant Art)

Các hóa thạch của Liopleurodon được phát hiện tại nhiều nơi trên khắp châu Âu, tập trung nhiều tại Pháp và Anh. Dễ hiểu là do vùng đất này xưa kia được bao phủ bởi các vùng biển cạn, là địa bàn săn mồi ưa thích của Liopleurodon và các pliosaur. Cho đến nay đã có hai loài Liopleurodon được xác định bao gồm L. ferox và L. pachydeirus.

Pliosaurus

Pliosaurus xứng đáng là đại diện cho cả họ Pliosauridae, không chỉ vì đây là pliosaur đầu tiên được phát hiện, mà chúng còn có kích thước to lớn bậc nhất đồng thời có số loài phong phú nhất trong họ bò sát biển này. Cho đến nay đã có 8 loài Pliosaurus được xác định, kể từ khi loài đầu tiên là P. brachydeirus được phát hiện tại Anh quốc bởi nhà khảo cổ Richard Owen vào năm 1841. Thành viên thuộc chi Pliosaurus được phát hiện gần đây nhất là P. almanzaensis vào năm 2018.

Phục dựng hình ảnh của Pliosaurus sp. (tác giả: darkcjack222/Deviant Art)

Pliosaurus không chỉ là một trong những sinh vật biển nguy hiểm nhất trong thời đại của chúng mà còn có thể trong suốt lịch sử tự nhiên của Trái đất. Các Pliosaurus sở hữu đầy đủ các đặc điểm biến chúng thành kẻ săn mồi hàng đầu trong đại dương: thân hình rắn chắc đi cùng một cái đầu lớn với bộ hàm đầy răng cực khỏe. Đây còn là những tay bơi lội cừ khôi với các vây chèo đầy mạnh mẽ, nên một khi Pliosaurus tăng tốc các nạn nhân của chúng thường có rất ít cơ hội sống sót.

Pliosaurus là sinh vật săn mồi đầu bảng trong đại dương và chúng ăn gần như mọi sinh vật chuyển động, từ các loài cá, mực, cúc đá hay các loài bò sát biển khác.

Một trong những loài Pliosaurus đáng sợ nhất là P. funkei, hay còn được biết đến rộng rãi với biệt danh “Predator X”. Các bằng chứng về sự tồn tại của con quái vật khủng khiếp này được khai quật năm 2008 dưới những lớp băng dày đặc của vùng đất lạnh giá Svalbard nằm ở cực Bắc Na Uy. Mất hàng năm trời để người ta sắp xếp hơn 20.000 mảnh vụn để cuối cùng thu được không chỉ một mà đến hai hộp sọ pliosaur khổng lồ dài từ 1,5 – 2,5 m. Qua đó có thể ước tính kích thước của loài bò sát biển này có thể dài đến 12 m.

Phân tích sâu hơn về cấu trúc của các hóa thạch P. funkei cho thấy loài bò sát biển này, hay có thể mở rộng ra là cả chi Pliosaurus hay họ Pliosauridae, chủ yếu dùng các chân chèo trước để bơi, trong khi các chân chèo sau chủ yếu để dành tăng tốc khi cần rút ngắn khoảng cách với con mồi.

Tài liệu tham khảo

E. M. Knutsen, P. S. Druckenmiller, and J. H. Hurum. 2012. A new species of Pliosaurus (Sauropterygia: Plesiosauria) from the Middle Volgian of central Spitsbergen, Norway. Norwegian Journal of Geology 92:235-258

Gasparini Z. (2009) A new Oxfordian pliosaurid (Plesiosauria, Pliosauridae) in the Caribbean Seaway, Palaeontology 52 3, 661-669 doi:10.1111/j.1475-4983.2009.00871.x

Fischer V., Arkhangelsky M. S., et al (2015) Peculiar macrophagous adaptations in a new Cretaceous pliosaurid, Royal Society Open Science 2 150552 doi:10.1098/rsos.150552

V. Fischer, R. B. J. Benson, and N. G. Zverkov, L. C. Soul, M. S. Arkhangelsky, OLambert, I. M. Stenshin, G. N. Uspensky, P. S. Druckenmiller. 2017. Plasticity and convergence in the evolution of short-necked plesiosaurs. Current Biology 27:1-10

H. A. Longman. 1924. Some Queensland fossil vertebrates. Memoirs of the Queensland Museum 8(1):16-28

Páramo-Fonseca, M. E., Benavides-Cabra, C. D. and Gutiérrez, I. E. (2018) “A new large Pliosaurid from the Barremian (Lower Cretaceous) of Sáchica, Boyacá, Colombia”, Earth Sciences Research Journal, 22(4), pp. 223–238. doi: 10.15446/esrj.v22n4.69916.

B. A. Schumacher, K. Carpenter, and M. J. Everhart. 2013. A new Cretaceous pliosaurid (Reptilia, Plesiosauria) from the Carlile Shale (Middle Turonian) of Russell County, Kansas. Journal of Vertebrate Paleontology 33(3):613-628

H. G. Seeley. 1874. Note on some generic modifications of the plesiosaurian pectoral arch. Quarterly Journal of the Geological Society of London 30:436-449

Smith, A.S. and Dyke, G.J. 2008. The skull of the giant predatory pliosaur Rhomaleosaurus cramptoni: implications for plesiosaur phylogenetics. Naturwissenschaften, 95, 975-980.

S. W. Williston. 1903. North American plesiosaurs, part 1. Geological Series Field Museum of Natural History 3(1):1-77

Leave a Reply