Sauropod – những kỳ quan của thế giới khủng long (phần 2)

Phần 1

Các họ khủng long Sauropoda

Sơ đồ phân loại sauropod giản lược (tác giả: Caio et al 2014)

Sở hữu số lượng thành viên vô cùng phong phú nên không lạ khi việc phân nhóm các khủng long sauropod cũng rất phức tạp. Phần lớn những loài sauropod mà chúng ta biết đều thuộc về một nhánh được gọi là Neosauropod. Đây là một trong những nhánh chính xuất phát từ Eusauropoda hay còn gọi là các sauropod thực sự (bên cạnh một số nhánh quan trọng khác như Mamenchisauridae).

Mamenchisauridae

Mamenchisauridae với đại diện là những khủng long cổ siêu dài như các loài thuộc chi Mamenchisaurus nổi tiếng và các họ hàng như Eomamenchisaurus, Hudiesaurus, Tonganosaurus, Yuanmousaurus hay Omeisaurus. Phần lớn chúng được tìm thấy trong các di chỉ hoá thạch ở Trung Quốc, Mông Cổ hay Siberia. Một số nghiên cứu gần đây đã bổ sung một số đại diện phát hiện được ở châu Phi như Warmweracaudia hay Spinophorosaurus hay châu Úc như Rhoetosaurus vào họ Mamenchisauridae.

Khủng long Mamenchisaurus sinocanadorum (tác giả: Júlia d’Oliveira)

Neosauropod

Về cơ bản, các Neosauropod có thể được chia thành hai nhánh chính là DiplodocoideaMacronaria.

Diplodocoidea

Bao gồm các neosauropod có mối quan hệ gần gũi với Diplodocus longus (loài nổi tiếng nhất trong họ) hơn với Saltasaurus Ioricatus. Các khủng long diplodocoid rất dễ nhận diện bởi hình dạng đầu đặc trưng. Các răng của chúng phân bố hoàn toàn phía trước lỗ tiền hốc mắt và lỗ mũi đặc biệt rộng. Các khủng long diplodocoid có số lượng đốt sống cổ vượt trội so với số lượng trung bình của các sauropod (80 so với 40). Ngoài ra, đốt sống xa nhất thuôn dài tạo thành một cái roi ở chóp đuôi.

Tạo hình Diplodocus trong game Prehistoric Kingdom (nguồn: Crytivo)

Diplodocoidea cũng là nhánh (hay liên họ) neosauropod có sự phân hoá về kiểu hình của đầu, cổ và kỹ thuật kiếm ăn đa dạng nhất. Tuy nhiên, đặc điểm chung của nhánh này là phần lỗ mũi nằm cao trên đỉnh hộp sọ, gần với hốc mắt, trong khi phần răng chỉ phân bố ở phía trước bộ hàm hình chêm. Các răng hẹp và giống hình dạng viết chì để tước lá, đặc biệt trong họ Diplocoicidae.

Các diplodocoid có các xương sườn cổ ngắn, làm tăng độ linh hoạt của cổ, và chi trước ngắn giúp làm giảm trọng lượng phần trước để giúp một số loài có thể đứng lên bằng hai chân sau để tìm lá cây trên cao. Ngoài ra, tất cả các diplodocoid đều có một cái đuôi rất dài, và kết thúc bằng một cái “roi” ở chóp đuôi, vừa để tự bảo vệ bản thân vừa để duy trì khoảng cách phù hợp với những cá thể khác.

hộp sọ Diplodocus
Hộp sọ Diplodocus (tác giả: ©AMNH/D. Finnin)
Diplodocidae

Nổi tiếng trong liên họ Diplodocoidea là họ Diplodocidae. Các khủng long thuộc họ này có phần cổ rất dài để ăn lá cây từ trên cao. Các loài khủng long nổi tiếng khác bên cạnh Diplodocus trong họ này bao gồm Apatosaurus, Brontosaurus hay Supersaurus. Trong khi đó, hai họ còn lại là DicreaeosauridaeRebbachisauridae có các thành viên có cổ ngắn nhất trong tất cả sauropod, phù hợp để kiếm ăn gần mặt đất.

Dicraeosauridae

Các khủng long thuộc họ Dicraeosauridae hay dicraeosaurid giống với các diplodocid có các gai sống chẻ đôi, thậm chí ở các khủng long này các gai sống còn cao và cách xa nhau hơn, cá biệt có thể phát triển thành một hàng gai đáng sợ như trường hợp của Amargasaurus cazui. Một thành viên nổi tiếng khác của họ này là Brachytrachelopan mesai hiện đang giữ kỷ lục là loài sauropod có cái cổ ngắn nhất (nếu tính theo tỷ lệ cơ thể).

Hình ảnh phục dựng Brachytrachelopan mesai (tác giả: Gabriel Ugueto)
Rebbachisauridae

Rebbachisauridae là một họ sauropod còn tương đối mới mẻ, được chia làm hai phân họ rebbachisaurinelimaysaurine. Các rebbachisaurid sinh sống ở các vùng đất mà ngày nay là Nam Phi, Bắc Mỹ và châu Âu vào đầu và giữa Kỷ Creta. Các rebbachisaurid thường có kích thước trung bình và chỉ có một hàng gai sống, thay vì chia đôi như các diplodociddicraeosaurid. Một số chi có các khớp đặc biệt ở lưng hoặc ở các đốt sống thân hoặc ở các đai gốc chi, có lẽ để thích nghi với địa hình gồ ghề hoặc đồi núi.

Limaysaurus bị Giganotosarus tấn công
Limaysaurus tessoni (một loài limaysaurine) bị Giganotosaurus tấn công (tác giả: paleoguy/Deviant Arts)

Các thành viên thuộc phân họ Rebbachisaurine (Rebbachisaurus garasbae hay Nigersaurus taqueti) thường có kích thước nhỏ hơn và có cổ ngắn, hộp sọ rộng, quai hàm bạnh (có thể chứa tới 600 răng nhỏ tạo thành một mặt nhai để nghiền nát các loại thực vật nhỏ và ngắn), phù hợp với việc kiếm ăn các loại thực vật sát mặt đất.

Nigersaurus by Luca Massini
Phục dựng hình ảnh Nigersaurus taqueti (tác giả: Luca Massini)

Macronaria

Macronaria là một trong hai liên họ lớn, cùng với Diplodocoidea tạo nên nhánh Neosauropoda. Các thành viên trong nhóm này bao gồm các brachiosaurid có hình dạng đặc trưng và sau đó được tiếp nối bởi các titanosaur vào Kỷ Creta. Một số nhà khoa học thường gom chung hai họ khủng long này thành một liên họ với tên gọi Titanosauriformes. Ngoài ra, còn một số loài khủng long không thuộc về hai nhóm trên chẳng hạn như họ Camarasauridae với đại diện là chi Camarasaurus.

Fernando Usabiaga Bustos
Phục dựng hình ảnh Camarasaurus supremus (tác giả: Fernando Usabiaga Bustos)

Brachiosauridae

Các brachiosaurid phần lớn là những khủng long có kích thước to lớn, với phần vai nhô cao trên hai chân trước dài, với đại diện nổi tiếng nhất là Brachiosaurus altithorax đến từ Bắc Mỹ. Tuy nhiên, không phải brachiosaurid nào cũng to lớn, chẳng hạn như Europasaurus holgeri, được tìm thấy ở nước Đức ngày nay, là một trong những sauropod nhỏ nhất từng được biết tới. Khác với nhiều họ sauropod tiến hoá bằng cách gia tăng số lượng đốt sống thì các brachiosaurid phát triển chiều dài của từng đốt sống.

Brachiosaurus – “ngôi sao” của loạt phim Jurassic Park/Jurassic World (nguồn: Universal Studio)

Thời đại hoàng kim của các brachiosaurid kéo dài từ cuối Kỷ Jura đến đầu Kỷ Creta. Bên cạnh Brachiosaurus, một số thành viên nổi tiếng khác trong họ này có thể kể tới Gigraffatitan, loài họ hàng gần gũi của Brachiosaurus sinh sống ở Tanzania ngày nay, hiện đang giữ kỷ lục là bộ xương khủng lớn nhất thế giới đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Berlin hay Lusotitan atalaiensis được tìm thấy tại Bồ Đào Nha.

Bộ xương Giraffatitan brancai được trưng bày tại Bảo tàng Tự nhiên Berlin (tác giả: Antje Dittmann)
Titanosauria

Titanosauria là nhánh sauropod xuất hiện vào khoảng giữa Kỷ Jura, nhưng chỉ trở nên phổ biến vào đầu Kỷ Creta, và tồn tại đến khi thời đại khủng long kết thúc. Các thành viên trong họ Titanosauria đa dạng cả về kích thước (có thể chỉ nhỏ bằng một con ngựa con như Magyarosaurus cho đến những gã khổng lồ thực thụ như Argentinosaurus) và hình dạng (có thể cổ ngắn như Isisaurus colberti cho đến cổ dài như Rapetosaurus krausei hay từ cao lớn như Alamosaurus sanjuanensis cho đến thấp bé và to bè như Opisthocoelicaudia skarzynskii).

Một đặc điểm làm nên sự khác biệt của các titanosaur so với các sauropod khác là rất nhiều loại trong chúng sở hữu một “bộ áo giáp” được cấu tạo bằng những mảnh vảy xương (osteoderm), một đặc điểm làm tăng khả năng sống sót của chúng trước những loài khủng long ăn thịt của Kỷ Creta, điển hình như Alamosaurus.

Khủng long Sauropod nào lớn nhất?

Như chúng ta đã biết, phần lớn các sauropod là những sinh vật có kích thước lớn hơn bất kỳ loài sinh vật nào bước chân trên Trái đất hiện tại. Những sauropod nổi tiếng như Diplodocus, Apatosaurus hay Brachiosaurus trên thực tế chỉ là những sauropod có kích thước vào dạng tầm trung. Như vậy đâu mới là giới hạn kích thước của một sauropod có thể đạt được? Hãy cùng chúng tôi điểm qua một số ứng cử viên cho danh hiệu sauropod lớn nhất từng tồn tại trong lịch sử:

Dreadnoughtus

Dreadnoughtus schrani sống cách đây 77 triệu năm, tại vùng đất ngày nay thuộc Nam Patagonia, Argentina. Một con Dreadnoughtus có thể dài khoảng 26 m và nặng 59 tấn.

Patagotitan mayorum

Patagotitan là một trong những titanosaur lớn nhất từng được biết đến. Các hoá thạch của loài khủng long này được phát hiện tại một nông trại ở Patagonia, Argentina vào năm 2010. Cho đến nay, đây vẫn là một trong những bộ xương hoá thạch hoàn thiện nhất của một titanosaur từng được biết đến. Chỉ tính riêng phần xương đùi đã dài đến 2,38 m.

Các Patagotitan sống cách đây 101 triệu năm vào đầu Kỷ Creta. Dựa vào kích thước hoá thạch có thể ước tính một con Patagotitan trưởng thành có thể dài từ 31 – 40 m, đứng cao đến 8 m và nặng 42,5 – 70,1 tấn. Để dễ hình dung, một con Patagotitan dài và nặng gấp đôi một con Diplodocus hoặc nặng bằng 9 con voi châu Phi trưởng thành.

So sánh kích thước Patagotitan và Diplodocus (tác giả: Gabriel Ugueto)

Argentinosaurus

Argentinosaurus là một titanosaur có họ hàng gần gũi với Patagotitan và cũng được tìm thấy ở Argentina. Tuy nhiên, khác với người bà con của mình, các hoá thạch của Argentinosaurus không có nhiều, do đó rất khó để hình dung về loài sauropod khổng lồ này. Tuy nhiên, các ước tính về kích thước (dài 30 – 35 m và nặng 80 – 100 tấn) vẫn đảm bảo cho loài khủng long một chỗ đứng trong danh sách các khủng long to lớn nhất từng tồn tại. Argentinosaurus được cho là ngắn hơn nhưng nặng hơn nhiều so với Patagotitan.

Phục dựng hình ảnh Argentinosaurus (tác giả: Damir G. Martin)

Puertasaurus

Argentina xứng đáng được mệnh danh là vùng đất của những người khổng lồ khi đây cũng là quê hương của Puertasaurus, một họ hàng khác của Argentinosaurus Patagotitan. Do đến nay, chỉ có vỏn vẹn 4 đốt sống của loài khủng long này được tìm thấy, cho nên rất khó để xác định kích thước thực sự của loài khủng long này, tuy nhiên các chuyên gia cho rằng con số này không thua kém các họ hàng của chúng là bao nhiêu.

Sauroposeidon

Sauroposeidon sống cách đây 110 – 118 triệu năm vào đầu Kỷ Creta. Khi hoá thạch đốt sống của Sauroposeidon lần đầu được phát hiện tại Hoa Kỳ năm 1994, các nhà khoa học đã nghĩ rằng đây là một loại cây hoá thạch do nó quá lớn với chiều dài lên đến 1,4 m. Chỉ riêng phần cổ của Sauroposeidon đã dài đến 12 m.

Ban đầu, Sauroposeidon được xem là một brachiosaurid và có quan hệ gần gũi với Brachiosaurus hay Giraffatitan, tuy nhiên, những phát hiện thêm về loài sauropod khổng lồ này ở Hệ tầng Cloverly thuộc bang Wyoming đã cho thấy Sauroposeidon gần với các titanosaur hơn. 

Turiasaurus

Turiasaurus sống cách đây 146 – 155 năm vào cuối Kỷ Jura. Hoá thạch của chúng đã được phát hiện ở Tây Ban Nha. Đây là loài khủng long có kích thước lớn nhất từng được phát hiện tại châu Âu. Có nhiều tranh cãi về kích thước thực sự của chi khủng long này, tuy nhiên con số thường được chấp nhận là dài 30 – 39 m và nặng 40 – 50 tấn.

Supersaurus

Supersaurus là một chi khủng long thuộc họ Diplodocidae sống vào cuối Kỷ Jura. Cho đến nay đã có hai loài trong chi Supersaurus đã được phát hiện: (1) Supersaurus vivanae sống tại Bắc Mỹ và (2) loài Supersaurus thứ hai, S. lourinhanensis đã được phát hiện tại Bồ Đào Nha (còn được biết đến với cái tên Dinheirosaurus lourinhanensis) cũng sống vào cùng thời đại.

Một con Supersaurus trưởng thành có thể dài từ 33 – 35 m và nặng 35 – 40 tấn.

Phục dựng hình ảnh Supersaurus (tác giả: Kentaro Kameda)

Notocolossus

Notocolossus là một loài sauropod mới được mô tả vào năm 2016. Tương tự một số loài sauropod khác, không có nhiều hoá thạch để có một mô tả cụ thể về loài khủng long này, ngoài một phần xương chi trước, một mảnh xương chậu và một số đốt sống được phát hiện tại tỉnh Mendoza, Argentina. Tuy nhiên phần xương chi trước này đã dài đến 1,76 m. Do đó, theo tính toán sơ bộ, Notocolossus phải dài không dưới 28 m và cân nặng từ 44,9 – 75,9 tấn.

Maraapunisaurus

Maraapunisaurus là một chi sauropod sống vào cuối Kỷ Jura tại khu vực Bắc Mỹ ngày nay. Đây là một trong những sauropod được phát hiện từ rất sớm khi một đốt sống khổng lồ với chiều cao lên tới 1,5 m (có thể tới 2,7 m nếu còn nguyên vẹn) được phát hiện vào năm 1877. Lấy các diplodocid làm chuẩn, người ta ước tính Maraapunisaurus có thể dài 40 – 60 m và nặng tới 122,4 tấn.

Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho rằng Maraapunisaurus thực chất là một rebbachisaurid thay vì diplodocid. Do đó, thay vì lấy Diplodocus làm chuẩn như trước đây, Limaysaurus được dùng xác định kích thước của Maraapunisaurus. Do các rebbachisaurid có cổ ngắn hơn diplodocid rất nhiều nên chiều dài của Maraapunisaurus bị rút ngắn xuống còn khoảng 35 m và nặng 70 kg, vẫn rất lớn so với phần lớn các sauropod khác.

Barosaurus

Barosaurus là một trong rất nhiều những chi sauropod được tìm thấy ở Hệ tầng Morrison thuộc Kỷ Jura (chỉ tính riêng phân họ Diplodocinae đã có tới hơn 14 loài thuộc 9 chi) và cũng có khả năng là chi lớn nhất. Các ước tính gần đây cho thấy Barosaurus có thể đạt chiều dài lên tới 45 m. Giống như các phần lớn các diplodocid, Barosaurus có thể đứng trên hai chân, khi đó con vật có thể đạt chiều cao tới 22 m. Tương ứng với chiều dài của mình, Barosaurus có thể nặng tới 60 tấn, tương đương 10 con voi châu Phi.

Kết luận

Tóm lại, rất khó để đưa ra kết luận đâu là sauropod lớn nhất, tuy nhiên, nếu xét theo từng tiêu chí, chúng ta có thể có một bảng xếp hạng như sau (theo số liệu đến năm 2020 và có thể thay đổi trong tương lai):

Sauropod cao nhất?

  • 5. Sauroposeidon proteles – 16,5 m
  • 4. Xinjiangtitan shanshanesis – 17 m
  • 4. Chi Argentinosaurus – 17 m
  • 2. Asiatosaurus mongoliensis – 17,5 m
  • 1. Barosaurus lentus – 22 m

Loài diplodocid sống tại Bắc Mỹ vào Kỷ Jura giữ ngôi vị quán quân do có khả năng đứng bằng hai chân sau và vươn cái cổ khổng lồ của nó lên tới độ cao 22 m.

Sauropod nặng nhất?

Ở hạng mục này, với trọng lượng tối thiểu là 80 tấn, Argentinosaurus không có đối thủ khi bỏ xa các khủng long xếp sau là Maraapunisaurus (70 tấn) và Barosaurus (60 tấn).

Sauropod dài nhất?

Danh hiệu sauropod dài nhất tiếp tục là cuộc đua của Argentinosaurus (36 m) và Barosaurus (45 m) cùng một đối thủ nữa là Patagotitan (37,5 m). Tuy nhiên, lần này Barosaurus đã dễ dàng đánh bại hai gã khổng lồ hậu bối Kỷ Creta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nicole Klein (2011). Biology of the Sauropod Dinosaurs: Understanding the Life of Giants. Indiana University Press. p. 73. ISBN978-0-253-35508-9.

Molina-Perez & Larramendi (2020). Dinosaur Facts and Figures: The Sauropods and Other Sauropodomorphs. New Jersey: Princeton University Press.

Thomas R. Holtz Jr. (2012). Dinosaurs: The Most Complete, Up-to-Date Encyclopedia for Dinosaur Lovers of All Ages. Random House.

Donald R. Prothero (2016). Giants of the lost world : dinosaurs and other extinct monsters of South America. Smithsonian Books

Leave a Reply